Lịch sử Nghiên cứu sử học về sự Kitô giáo hóa Đế quốc La Mã

Về nghiên cứu sử học

Sử gia người Anh Edward Gibbon, tác giả cuốn The History of the Decline and Fall of the Roman Empire

Theo quan điểm cũ, Pagan giáo — tức đa thần giáo Hy-La truyền thống đô thị — bên trong Đế quốc La Mã thường được coi là đã bắt đầu lụi tàn từ thế kỷ thứ 2 hoặc 1 TCN, bị gián đoạn bởi một đợt 'Phục Hưng' đời Augustus (trị 27 TCN – 14 CN). Người ta từng cho rằng tục thờ phụng hoàng đế La Mã, 'các giáo phái đông phương' và đạo Kitô là triệu chứng của cái quá trình suy sụp dần dần đó.[4] Đạo Kitô nổi lên như một phong trào tôn giáo lớn ở Đế quốc La Mã, các vương quốc tây di, các quốc gia lân bang, cũng như một số khu vực thuộc Đế quốc Ba Tư và Sassanid.[5]

Trình thuật chính về sự trỗi dậy của đạo Kitô, trong suốt 200 năm kể từ năm 1776, được trích xuất chủ yếu từ tác phẩm Decline and Fall của Edward Gibbon.[6] Gibbon đánh giá Constantine là một vị hoàng đế với "tham vọng vô hạn" và một sự khao khát danh vọng mãnh liệt; ông ta muốn áp đặt đạo Kitô lên phần còn lại của đế quốc như một nước cờ chính trị, bất cần đạo lý, để đạt được "trong vòng ít hơn một thế kỷ, cuộc chinh phục cuối cùng Đế quốc La Mã".[7] Phải tới năm 1936 thì một số học giả như Arnaldo Momigliano mới đặt nghi vấn về quan điểm này.[8]

Năm 1953, nhà sử học nghệ thuật Alois Riegl đưa ra quan điểm độc đáo đầu tiên, cho rằng chưa từng tồn tại một sự khác biệt về chất lượng của nghệ thuật và chưa từng có một giai đoạn suy thoái cuối thời kỳ Cổ điển.[9] Năm 1975, khái niệm "lịch sử" được mở rộng để bao gồm các nguồn nằm ngoài trình thuật cổ đại và các văn liệu cổ điển.[10] Bằng chứng sử học giờ đây bao trùm cả các lĩnh vực khác như văn bản pháp luật, kinh tế học, lịch sử tư tưởng, tiền xu, bia mộ, kiến trúc, khảo cổ học, v.v.[11] Vào những năm 1980, các giả thuyết tổng hợp bằng chứng mới bắt đầu được đề ra.[12] Một phần tư cuối của thế kỷ 20, ngành nghiên cứu này đã đạt được những tiến độ đáng kể.[13]

Tôn giáo La Mã

Ba Đấng Capitoline, tác phẩm điêu khắc thế kỷ thứ hai minh họa Minerva, JupiterJuno

Tôn giáo ở Hy-La cổ đại khác biệt rất nhiều so với tôn giáo hiện đại. Ở Đế quốc La Mã thuở sớm, tôn giáo mang tính chất đa thần và cục bộ. Nó không chú trọng vào cá nhân, mà tập trung vào lợi ích của thành phố: nó là một tôn giáo dân sự mà trong đó nghi lễ là dạng thờ phụng chính. Chính trị và tôn giáo ở Hy-La hòa lẫn với nhau, và các nghi lễ công chúng được cử hành bởi các quan chức công cộng. Sự tôn kính đối với tục lệ tổ tiên là một phần rất quan trọng trong tín ngưỡng và thực hành đa thần giáo; thành viên trong xã hội địa phương được kỳ vọng tham gia vào các nghi lễ công cộng.[14]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Nghiên cứu sử học về sự Kitô giáo hóa Đế quốc La Mã https://www.academia.edu/38253240 https://doi.org/10.13140%2FRG.2.2.36486.52804 https://doi.org/10.1007%2F978-1-4471-2858-8_26 https://www.academia.edu/3165829 https://www.worldcat.org/oclc/873814450 https://doi.org/10.4324%2F9781315847887 https://ccel.org/ccel/gibbon/decline/decline.v.xlv... https://doi.org/10.1017%2FCBO9780511973451 https://doi.org/10.4324%2F9781315103334 https://api.semanticscholar.org/CorpusID:213344890